Phong cách Obama qua chuyến công du châu Á

|

NDO - NDĐT - Như một quy ước kiểu “luật bất thành văn” trong đời sống chính trị của nước Mỹ, tổng thống nào cũng đều cố gắng để lại không ít thì nhiều những dấu ấn cá nhân trong thời gian làm việc tại Nhà Trắng. Người Mỹ “xoay trục” hay “lệch trục”? Obama với nỗi ám ảnh của lịch sử Xoay trục châu Á của Mỹ qua chuyến công du của Joe Biden Nước Mỹ: Từ Cairo - Honolulu đến Damascus

Mỗi tổng thống Mỹ thường đưa ra một tư tưởng chủ đạo nào đó (giới học giả thường gọi đó là “học thuyết” (Doctrine) có ý nghĩa như kim chỉ nam cho mọi chính sách, hoặc một chính sách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước Mỹ, nhất là trong lĩnh vực đối ngoại, lĩnh vực mà tổng thống được Hiến pháp trao cho rất nhiều quyền hạn. Trong lịch sử của nước Mỹ, có không ít tổng thống đã để lại những chính sách hay học thuyết nổi tiếng, tiêu biểu như F. Roosevelt với Chính sách Kinh tế mới (New Deal), H. Truman với Chiến lược Ngăn chặn (Containment Strategy) hay R. Nixon với thuyết Chia sẻ trách nhiệm (Guam Doctrine) v.v.

Bill Clinton, Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ thời hậu Chiến tranh lạnh nổi tiếng với chủ thuyết “Đơn phương khi có thể, đa phương khi cần thiết”, còn Tổng thống kế nhiệm G. Bush cũng không kém danh với luận điểm “Đánh đòn phủ đầu” (Pe-emption) trong học thuyết Bush.

Điều kỳ lạ là đã được hơn nhiệm kỳ rưỡi, tức thời gian lưu lại Nhà Trắng không còn nhiều, nhưng vẫn rất khó để chỉ rõ hình hài sản phẩm "lưu danh" của Tổng thống Barack Obama. Một số thì cho đó là luận điểm "sẵn sàng đối thoại với thế giới Hồi giáo", số khác thì lại cho “chính sách xoay trục về châu Á” (hay còn gọi là chính sách tái cân bằng”) xứng đáng hơn, nhưng rồi chính họ lại đâm nghi ngờ vì những biểu hiện không rõ ràng của chúng trên thực tế.

Theo dõi hành trình của Tổng thống B. Obama từ thời điểm bắt đầu tranh cử (mùa thu năm 2008” với khẩu hiệu “Chúng ta cần thay đổi” đã giúp ông đắc cử) cho đến ngày hôm nay, đúng là ông không hùng hồn tuyên bố một học thuyết nào rõ ràng, nhưng với người viết những hành động của ông lại cho thấy một “phong cách rất Obama”.

Cách hành xử của Tổng thống Obama trong chuyến công du bốn nước ch??u Á – Thái Bình Dương trong vòng sáu ngày vừa qua (từ ngày 23 đến 28-4-2014) thực sự là điểm nhấn quan trọng giúp khắc họa rõ nét hơn phong cách của vị tổng thống da màu đầu tiên của nước Mỹ thời khủng hoảng kinh tế.

Trước chuyến công du, Tổng thống Obama phải chịu rất nhiều sức ép từ mọi phía. Trước hết là những chỉ trích của phe Cộng hòa trước những phản ứng “bị cho là yếu đuối” của chính quyền Obama trước các sự kiện trên bán đảo Triều Tiên, ở Syria, tại Ucraina, đặc biệt là vụ sát nhập Crưm của Nga. Ngay tại ch??u Á – Thái Bình Dương, những đồng minh thân cận của Mỹ cũng tỏ ra nghi ngờ quyết tâm cũng như khả năng “xoay trục về châu Á”, đặc biệt là trong việc bảo vệ đồng minh của Mỹ. Việc phải tiến hành các biện pháp trừng phạt Nga trong tình cảnh nền kinh tế chưa thực sự phục hồi càng khiến mục tiêu phá vỡ bế tắc trong tiến trình đàm phán hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương trở nên cấp bách đối với chính quyền Obama. Trên hết, không thể phủ nhận dưới thời Obama, hình ảnh nước Mỹ đang trở nên nhạt nhòa trong con mắt cộng đồng quốc tế, chí ít là trong so sánh với thời của Tổng thống Bush. Chính vì thế, ngay cả với nhiều người Mỹ chuyến công du lần này của Tổng thống Obama chỉ mang tính "trấn an" đồng minh là chính, thậm chí chủ yếu mang tính "biểu trưng" chứ khó có bước đột phá nào.

Tại Tokyo, chặng dừng chân đầu tiên của chuyến công du, Tổng thống Obama phải đối mặt với ít nhất bốn câu hỏi của người Nhật: Mức độ cam kết bảo vệ Nhật Bản, trước hết là trong các tranh chấp biển, đảo với Trung Quốc? Mức độ cho phép "tự chủ" của người Nhật trong hợp tác an ninh với Mỹ (trong một vài tình huống, như việc viếng thăm ngôi đến Yasukuni của một số giới chức Nhật, chính quyền Obama vẫn chỉ trích người Nhật không nên làm phức tạp thêm tình hình)? Mức độ nhượng bộ đối với vấn đề nông phẩm trong khuôn khổ TPP? Trên hết, liệu đã đến lúc phải xem xét lại mô hình hợp tác an ninh Mỹ - Nhật để người Nhật không bị đặt vào tình thế "đã rối" kiểu như tại Crưm? Cuối cùng, Tổng thống Obama đã chỉ giải đáp có một vấn đề qua tuyên bố: “Tôi muốn nhắc lại rằng Cam kết của Mỹ trong việc đảm bảo an ninh cho Nhật là không thể suy chuyển và Điều 5 của Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật được áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Nhật Bản, bao gồm cả quần đảo Senkaku” thực sự đã làm đẹp lòng cả đôi bên.

Thủ tướng Shinzo Abe đã gọi "Đây là một cam kết lịch sử đối với cả Nhật Bản và Mỹ", bởi đây là lần đầu tiên một tổng thống Mỹ tuyên bố chính thức về trách nhiệm bảo đảm an ninh cho quần đảo đang là tâm điểm tranh chấp giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Về phía Mỹ, tuyên bố này chỉ gây khó dễ nhất thời với ông Obama khi gặp các nhà lãnh đạo Trung Quốc, còn trước những va chạm ở mức độ thấp tại Senkaku/Điếu Ngư thì theo chính Điều 5 của Hiệp ước an ninh tương hỗ, người Mỹ lại không phải động binh. Như vậy, thực chất ông Obama đã né tránh được việc phải đối đầu quân sự với Trung Quốc, bởi trên thực tế khả năng xảy ra chiến tranh Nhật - Trung là rất thấp. Câu chuyện TPP cũng được ông Obama gác lại, bởi có thể cái giá mà người Nhật đòi mở cửa thị trường xe hơi là quá cao đối với Mỹ vào thời điểm hiện tại.

Tới Seoul, Tổng thống Obama thậm chí còn tuyên bố mạnh mẽ hơn: “Mỹ và Hàn Quốc sẽ sát cánh đối mặt với những hành động khiêu khích từ phía Triều Tiên và không chấp nhận một Triều Tiên có vũ khí hạt nhân", và "nước Mỹ sẽ không do dự sử dụng vũ lực" để thực thi trách nhiệm "bảo vệ đồng minh". Tuy là tuyên bố mang đậm chất kiểu "lằn ranh giới đỏ" như với Syria nhưng có lẽ Tổng thống Obama đã quá hiểu, ít nhất còn có nhiều nước liên quan, trước hết là Trung Quốc và Nga, phần nào cả CHDCND Triều Tiên, đều không muốn một cuộc chiến tranh hạt nhân nổ ra trên bán đảo này.

Trong chặng dừng chân tiếp theo tại Kuala Lumpur, Tổng thống Obama đã gạt bỏ sang bên nhiều toan tính, tiêu biểu như vấn đề TPP (Malaysia là một bên tham gia), để hướng tới mục tiêu toàn diện hơn - nâng cấp quan hệ song phương lên mức "đối tác toàn diện". Tổng thống Obama đã không nóng vội trong tọa đàm với Thủ tướng Rajib Nazak, bởi dù sao đây mới chỉ là chuyến thăm cấp cao đầu tiên kể từ năm 1966 (chuyến thăm của L. Johnson). Xét cho cùng, mô hình "đối tác toàn diện" sẽ là cầu nối hợp lý nhất giúp hai nước hướng tới một sự hợp tác sâu rộng trong tương lai.

Trong bốn nước mà ông Obama ghé thăm, Philippines là nước cần sự hỗ trợ của Mỹ nhiều nhất cả về tài chính lẫn quân lực. Hiệp định hợp tác quân sự (ký ngày 28-4-2014) cho thấy sự "mềm mại" của Obama. Theo hiệp định này, người Mỹ không tăng quân tại đây mà chỉ là tăng thời gian quá cảnh cũng như quyền hạn sử dụng các căn cứ quân sự, còn quyền tự quyết vẫn thuộc về chính phủ Philippines.

Một sự "chia sẻ trách nhiệm" rất rõ ràng, và hơn thế ông Obama cũng tuyên bố "mong muốn Philippines giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ bằng đối thoại và luật quốc tế". Dường như cùng với các cam kết bảo vệ đồng minh, ông Obama vẫn luôn muốn thoát khỏi cái bẫy tranh chấp lãnh thổ.

Một điểm nhấn không thể bỏ qua của chuyến công du lần này là việc Tổng thống Obama đã không ghé thăm Bắc Kinh như thông lệ. Với các đồng minh thì hành động này có ý nghĩa trấn an rất lớn, rằng họ được tôn trọng. Nhưng nếu nhìn vào kế hoạch thăm Trung Quốc vào mùa Thu tới, và đương nhiên sẽ không ghé lại những nơi vừa qua, thì mới thấy sự toan tính đến "rạch ròi" của vị tổng thống Mỹ. Một thông điệp rất rõ ràng của Tổng thống Obama: Bảo vệ đồng minh phải được đặt trong tổng thể lợi ích của nước Mỹ.

Đến đây có thể tóm lược phong cách của Obama bằng cụm từ "thực dụng", hoặc hoa mỹ hơn “sức mạnh thông minh”. Lợi ích của nước Mỹ luôn được thực hiện trong cân đong, đo đếm chứ không vì thể diện hay những thói quen - đó là cách giải nghĩa chính xác phong cách của Obama. Điều đã làm nên khác biệt giữa Barack Obama với các tổng thống tiền nhiệm.

Link Tải APP Monkey King Legend Entertainment